Chi tiết chương trình
 
Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp
 Ngày: 16-8-2020
File đính kèm: , ,
Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (KDCN) chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 1/1/2020.
Thỏa ước này sẽ giúp ích rất lớn cho người nộp đơn trong việc đơn giản hóa thủ tục, tiết kiệm thời gian và chi phí khi đăng ký, gia hạn hiệu lực, chuyển giao quyền sở hữu và các thủ tục khác liên quan đến đơn KDCN. 

Một vài nét về Thỏa ước Lahay và sự tham gia của Việt Nam

Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế KDCN được ký kết năm 1925 tại Lahay (Hà Lan) và có hiệu lực từ ngày 1/6/1928. Hệ thống Lahay do Văn phòng Quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ (SHTT) thế giới (WIPO) quản lý. Theo thống kê, hiện có 65/74 thành viên Hệ thống Lahay tham gia Văn kiện Geneva 1999. Trong khu vực Đông Nam Á hiện nay đã có 4 thành viên gồm: Singapore (ngày 17/4/2005), Brunei (ngày 24/12/2013), Campuchia (ngày 25/2/2017) và Việt Nam.

Do tính ưu việt của Thỏa ước Lahay là đơn giản hóa về thủ tục với mức phí thấp nhất cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (các nước là thành viên của Thỏa ước Lahay) thực hiện các thủ tục liên quan đến đăng ký KDCN, nên ngày 30/9/2019 tại Geneva, Thụy Sĩ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh đã trao Văn kiện gia nhập Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế KDCN đến Tổng giám đốc WIPO Francis Gury. Văn kiện này có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 1/1/2020.


Với việc tham gia Văn kiện Geneva 1999, Việt Nam sẽ chỉ có quyền và nghĩa vụ với Thỏa ước theo Văn kiện này và độc lập với Văn kiện Lahay 1960. Bên cạnh đó, Việt Nam có quyền tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề của Liên minh Lahay quy định chung cho các văn kiện của Thỏa ước.

Kể từ ngày 1/1/2020 các tổ chức, cá nhân từ Việt Nam muốn đăng ký quốc tế KDCN có thể chỉ định các quốc gia là thành viên của Văn kiện Geneva 1999 thông qua Thỏa ước Lahay. Điều này cũng có nghĩa là, một KDCN của người nộp đơn (người Việt Nam) dễ dàng thực hiện các thủ tục liên quan đến đăng ký bảo hộ, gia hạn hiệu lực, chuyển giao quyền sở hữu và các thủ tục khác liên quan đến đơn KDCN của mình. Người nộp đơn chỉ phải nộp một đơn duy nhất bằng 1 trong 3 ngôn ngữ là Anh, Pháp, Tây Ban Nha, trong một đơn có thể đăng ký được 100 KDCN, một loại tiền (Franc Thụy Sĩ - CHF), có thể chỉ định yêu cầu bảo hộ tại hơn 90 quốc gia…, giúp rút ngắn rất nhiều thủ tục cho người nộp đơn. Đơn có thể nộp trực tuyến thông qua cổng điện tử của WIPO (hoặc có thể nộp qua bưu điện) mà không cần nộp đơn quốc gia trước đó, cũng như không cần nộp thông qua Cục SHTT. Hoặc, người nộp đơn cũng có thể nộp thông qua Cục SHTT. 

Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trong thời gian tới

Có thể thấy, những nội dung trong Văn kiện gia nhập Thỏa ước Lahay của Việt Nam là phương án phù hợp nhất, tối ưu nhất với tình hình thực tế tại thời điểm nộp đơn của Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian tới chúng ta cần sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam để phù hợp hơn với Thỏa ước này, cụ thể như sau:

Với Luật SHTT

Một số quy định của Luật SHTT hiện nay về đăng ký quốc tế KDCN của Việt Nam chưa tương thích với các quy định của Thỏa ước Lahay. Cụ thể, theo quy định của Thỏa ước Lahay, thời hạn ra thông báo từ chối hiệu lực của một đăng ký quốc tế là 6 tháng kể từ ngày công bố đăng ký. Bất kỳ bên tham gia nào có cơ quan thẩm định hoặc luật pháp có quy định về khả năng phản đối yêu cầu bảo hộ thì bên tham gia đó phải thông báo cho Tổng Giám đốc WIPO rằng thời hạn ra thông báo từ chối là 12 tháng thay vì 6 tháng.

Việc Việt Nam chưa đưa thông báo cho Tổng Giám đốc WIPO về thời hạn ra thông báo từ chối là 12 tháng thay vì 6 tháng  là phù hợp với tình hình thực tế, vì việc sửa Luật SHTT thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Nếu Việt Nam thông báo cho Tổng Giám đốc WIPO về vấn đề này trong khi Luật SHTT chưa được sửa thì sẽ trái với quy định của Luật SHTT hiện hành.

Vì vậy, trong thời gian tới, khi sửa đổi Luật SHTT cần được sửa đổi, bổ sung về vấn đề này và cần thông báo với Tổng Giám đốc WIPO tuyên bố phù hợp. Trên thế giới hiện nay, đã có một số nước đưa ra tuyên bố cho phép thời hạn ra thông báo từ chối 12 tháng như: Mỹ, Nga, Canada, Tây Ban Nha...

Đối với quy định về bản mô tả và yêu cầu bảo hộ: Tại Điều 5(2)(b)(ii) Văn kiện Geneva 1999 quy định, bất kỳ bên tham gia nào có thực hiện việc thẩm định nội dung và luật pháp trong nước của bên tham gia đó quy định đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ KDCN phải nộp kèm theo phần mô tả ngắn gọn về bộ ảnh chụp/bản vẽ hoặc các đặc điểm tạo dáng của KDCN để đơn được ghi nhận ngày nộp đơn thì có thể đưa ra thông báo cho Tổng Giám đốc WIPO về điều đó bằng một tuyên bố.

Bên cạnh đó, theo Điều 5(2)(b)(iii) Văn kiện Geneva 1999, bất kỳ bên tham gia nào có thực hiện việc thẩm định nội dung và luật pháp trong nước của bên tham gia đó quy định đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ KDCN phải nộp kèm theo phần yêu cầu bảo hộ để đơn được ghi nhận ngày nộp đơn thì có thể đưa ra thông báo cho Tổng Giám đốc WIPO về điều đó bằng một tuyên bố. Quy tắc 11(2) quy định, trường hợp đơn quốc tế có phần mô tả thì phần mô tả chỉ được đề cập đến các đặc điểm tạo dáng trong các bộ ảnh chụp/bản vẽ của kiểu dáng, không mô tả các đặc điểm kỹ thuật hay tính hữu ích của kiểu dáng. Nếu phần mô tả vượt quá 100 từ thì người nộp đơn sẽ phải trả thêm khoản phí bổ sung như được quy định trong bảng phí.

Trong khi đó, Điểm 108.1.b Luật SHTT quy định đơn KDCN chỉ được tiếp nhận nếu có bản mô tả. Điều 103 Luật SHTT quy định đơn KDCN phải có một bản mô tả bộc lộ đầy đủ tất cả các đặc điểm tạo dáng thể hiện bản chất của KDCN và nêu rõ các đặc điểm tạo dáng mới, khác biệt so với KDCN ít khác biệt nhất đã biết, phù hợp với bộ ảnh chụp hoặc bản vẽ, đồng thời có phần phạm vi bảo hộ KDCN. Phần phạm vi bảo hộ phải nêu rõ các đặc điểm tạo dáng cần được bảo hộ, bao gồm đặc điểm mới, khác biệt với các KDCN tương tự đã biết. Về vấn đề này, các nhà làm luật đã đưa ra quy định rất hợp lý trong điều kiện Luật SHTT chưa được sửa đổi. Tuy nhiên, sau khi sửa đổi Luật SHTT, các nhà xây dựng luật cũng cần phải có những điều chỉnh để phù hợp với thông lệ quốc tế.

Nghị định 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ

Cần bổ sung quyền SHCN đối với KDCN đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Lahay do Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về SHCN mới chỉ quy định về quyền SHCN đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid.

Bên cạnh đó, Điều 7 của Nghị định này cũng chỉ mới quy định về hiệp ước hợp tác quốc tế về bằng sáng chế năm 1970 (được sửa đổi năm 1984), Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1891 (được sửa đổi năm 1979) và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid năm 1989. Vì vậy, cần bổ sung quyền đăng ký quốc tế KDCN theo Thỏa ước Lahay.

Ngoài ra, về thủ tục nộp đơn quốc tế, Nghị định 103/2006/NĐ-CP mới chỉ quy định về thủ tục nộp đơn quốc tế về nhãn hiệu (Điều 12), sáng chế (Điều 11) nên cần bổ sung thêm một điều về thủ tục nộp đơn quốc tế về KDCN theo Thỏa ước Lahay. Đây cũng là một vấn đề nữa cần lưu ý khi xây dựng Nghị định mới quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT sửa đổi.   

Việc gia nhập Thỏa ước Lahay đáp ứng nhu cầu thực tiễn, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đăng ký quốc tế KDCN, vừa đảm bảo việc thực hiện cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định EVFTA, CPTPP cũng như trong khối ASEAN. Đặc biệt, trong bối cảnh SHTT đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, thì việc đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục theo tiêu chuẩn quốc tế càng trở nên cần thiết để thúc đẩy hoạt động đăng ký và bảo hộ quyền sơ hữu trí tuệ.

Công Thường



Các tin đã đưa
Thông báo của Cục Sở hữu trí tuệ về việc tuyển chọn tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ cấp quốc gia  (12-01-2024)
Xây dựng CDĐL cho sản phẩm sò huyết của tỉnh Cà Mau  (30-10-2023)
Nâng cao hiệu quả hoạt động sở hữu trí tuệ và quản trị tài sản trí tuệ cho doanh nghiệp  (28-10-2023)
Xây dựng CDĐL cho sản phẩm chè Shan tuyết Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên  (26-10-2023)
KẾT QUẢ BẢO HỘ, QUẢN LÝ TÀI SẢN TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI CÁC SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐỊA PHƯƠNG CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG  (24-10-2023)
Xử lý ô nhiễm nguồn nước trong các hệ thống nuôi tôm  (23-10-2023)
Các giải pháp liên kết nâng cao chuỗi giá trị cam Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang  (22-10-2023)
Nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ, đổi mới sáng tạo cho cộng đồng nữ trí thức Việt Nam  (18-10-2023)
Kết quả nổi bật trong bảo hộ, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ cho các sản phẩm chủ lực địa phương  (16-10-2023)
Quản lý, khai thác và phát triển chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê Đăk Hà của tỉnh Kon Tum  (15-10-2023)
Chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ giữa các trường đại học và doanh nghiệp   (13-10-2023)
Đào tạo, nâng cao năng lực xét xử các vụ án về sở hữu trí tuệ cho cán bộ của hệ thống tư pháp  (12-10-2023)
Chính sách quản trị tài sản trí tuệ trong các trường đại học  (10-10-2023)
Quản lý và phát triển thương hiệu các sản phẩm, dịch vụ du lịch lòng hồ sông Đà của tỉnh Sơn La  (7-10-2023)
Vai trò của sở hữu trí tuệ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch  (5-10-2023)
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Quảng Trị” cho sản phẩm chè vằng  (8-02-2023)
Phụ nữ với Sở hữu trí tuệ - Thúc đẩy đổi mới sáng tạo  (8-02-2023)
Giải pháp quản lý Nhà nước về tài sản trí tuệ vùng Tây Nguyên trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế   (19-04-2022)
Tình hình khai thác, thương mại hóa sáng chế tại Việt Nam  (12-04-2022)
Nâng cao nhận thức về bảo hộ, phát triển tài sản trí tuệ cho các chủ thể sản xuất và kinh doanh sản phẩm OCOP  (09-04-2022)